Luật di trú Mỹ: Child Status Protection Act - Phần 3
Kỳ trước tôi đã trình bày Ðiều Khoản 3 của Ðạo Luật Di trú Child Status Protection Act (CSPA) tuần này tôi xin trình bày tiếp Ðiều Khoản 4 tới Ðiều Khoản 6 của Ðạo Luật Child Status Protection Act (CSPA).
Ðạo luật này có hiệu lực từ ngày Tổng Thống George W. Bush ký (tức là ngày 6 tháng 8 năm 2002) và được áp dụng vào những hồ sơ như sau:
-
Những đơn bảo lãnh (đơn I-130) được chấp thuận mà đơn xin chiếu khán hoặc đơn xin thay đổi tình trạng di trú chưa được quyết định;
-
Những đơn bảo lãnh (đơn I-130) đang chờ đợi sự quyết định trước hoặc sau ngày đạo luật được ban hành;
-
Những đơn đang chờ đợi sự quyết định của Bộ An Ninh Nội Chính (tức là Sở Di Trú) hoặc Bộ Ngoại Giao (tức là Lãnh Sự Hoa Kỳ).
Luật di trú Mỹ: Child Status Protection Act - Phần 3 (Ảnh: minh họa)
Trước khi trình bày tiếp những điều khoản 4 tới điều khoản 6 tôi xin sơ lượt qua những diện bảo lãnh thân nhân. Diện bảo lãnh thân nhân gồm có 2 loại. Loại thứ nhất là Immediate Relative và loại thứ hai là Family Based Preference.
-
Diện Immediate Relative là diện bảo lãnh cho Vợ, Chồng, Con độc thân dưới 21 tuổi (con nuôi và con mồ côi cũng được lọt vào diện này), Cha hoặc Mẹ của công dân Hoa Kỳ, và diện này là diện bảo lãnh thân nhân mau nhất so với nhũng diện bảo lãnh thân nhân khác.
-
Diện Family Based Preference được chia ra làm 5 Preferences (tức là 5 ưu tiên). Ưu tiên 1 được dành cho những người con trên 21 tuổi chưa có gia đình của công dân Hoa Kỳ. Ưu tiên 2A được dành cho Vợ, Chồng, hoặc Con cái dưới 21 tuổi của thường trú nhân. Ưu tiên 2B được dành cho những người con trên 21 tuổi chưa có gia đình của thường trú nhân. Ưu tiên 3 được dành cho những người con đã có gia đình của công dân Hoa Kỳ. Ưu tiên 4 được dành cho Anh, Chị hoặc Em của công dân Hoa Kỳ.
Ðiều Khoản Số 4 và Ðiều Khoản Số 5:
Ðiều Khoản 4 và Ðiều Khoản 5 của
đạo luật Child Status Protection Act (CSPA) cũng tương tự như nhau và được áp dụng cho những hồ sơ tỵ nạn. Nhưng hai điều khoản có một khác biệt là Ðiều Khoản 4 được áp dụng cho những hồ sơ tị nạn được nộp tại Hoa Kỳ và Ðiều Khoản 5 được áp dụng cho những hồ sơ tị nạn được nộp ngoài Hoa Kỳ. Hai điều khoản này được áp dụng khi người con độc thân muốn đoàn tụ hoặc đứng cùng đơn với Cha hoặc Mẹ mà đơn xin tị nạn của Cha hoặc Mẹ đã được chấp thuận. Người con đó dưới 21 tuổi khi Cha hoặc Mẹ nộp đơn xin tị nạn nhưng thời gian chờ đợi hồ sơ tị nạn được chấp thuận quá lâu, người con đó đã quá 21 tuổi, thì với
Ðạo Luật Child Status Protection Act (CSPA), nay người con đó sẻ được
sở Di Trú Hoa Kỳ xác định là con dưới 21 tuổi và sẽ được hưởng quyền lợi
di trú.
Ðiều Khoản Số 6:
Ðiều Khoản 6 của đạo luật Child Status Protection Act (CSPA) qui định rằng hồ sơ bảo lãnh tự động chuyển diện ưu tiên 2B (tức là diện của những người con độc thân trên 21 tuổi của thường trú nhân) qua sang diện ưu tiên 1 (tức là diện của những người con độc thân trên 21 tuổi của công dân Hoa Kỳ), nhưng Ðiều Khoản 6 cũng qui định rằng những người con độc thân trên 21 tuổi được quyền yêu cầu hồ sơ bảo lãnh không chuyển từ ưu tiên 2B sang ưu tiên 1. Chắc quí vị cũng thắc mắc là tại sao điều khoản này cho phép người được bảo lãnh yêu cầu hồ sơ không chuyển từ ưu tiên thấp qua ưu tiên cao vì ai ai cũng muốn hồ sơ của họ được chuyển từ ưu tiên thấp sang ưu tiên cao. Nhưng quí vị nên hiểu rằng đạo luật này được áp dụng cho tất cả hồ sơ bảo lãnh theo diện thân nhân cho tất cả quốc gia trên thế giới.
Ðiển hình thứ nhất là ngày ưu tiên (tức là priority date) priority date của diện ưu tiên 2B (tức là diện của những người con độc thân trên 21 tuổi của thường trú nhân) cho tháng 1 năm 2003 là ngày 22 tháng 4 năm 1994 và ngày ưu tiên của diện ưu tiên 1 cho tháng 1 năm 2003 là ngày 1 tháng 5 năm 1999. Nếu thường trú nhân bảo lãnh cho người con 22 tuổi, độc thân và là công dân Việt Nam, và sau khi nộp đơn bảo lãnh người thường trú nhân trở thành công dân Hoa Kỳ, diện ưu tiên của người con sẽ được tự động chuyển sang ưu tiên 1. Sự chuyển diện sẽ có lợi cho người con đó cho nên người con đó sẽ không chống đối sự chuyển diện đó.
Ðiển hình thứ hai là ngày ưu tiên 2B cho công dân Phi Luật Tân cho tháng 1 năm 2003 là ngày 22 tháng 4 năm 1994 và ngày ưu tiên 1 cho công dân Phi Luật Tân cho tháng l năm 2003 là ngày 1 tháng 4 năm 1990. Nếu thường trú nhân bảo lãnh cho người con 22 tuổi, độc thân và là công dân Phi Luật Tân, và sau khi nộp đơn bảo lãnh người thường trú nhân trở thành công dân Hoa Kỳ, đương nhiên người con đó sẽ yêu cầu chống lại sự tự động chuyển đó vì ngày ưu tiên cho diện ưu tiên 2B sẽ tới sớm hơn diện ưu tiên 1. Trong trường hợp này thì người con sẽ tiếp tục được coi là diện ưu tiên 2B.
Những người thừa hưởng nào không có hồ
xin thẻ xanh đang chờ đợi
Sở Di Trú quyết định trước ngày 6 tháng 8 năm 2002 và sau đó người thừa hưởng nộp
đơn xin thẻ xanh và hồ bị từ chối vì đã quá 21 tuổi. Những người đó có thể nộp đơn đến
Sở Di Trú để xin mở lại hồ sơ để
Sở Di Trú xét lại và không cần phải đóng tiền đơn xin mở lại hồ sơ với điều kiện
-
hồ sơ từ chối phải được nộp trong vòng một năm ngày ưu tiên đáo hạn
-
hồ sơ bị từ chối chỉ vì lý do duy nhất là người thừa đã quá 21 tuổi. Tức là nếu hồ sơ bị từ chối vì lý do khác thì sẽ không được mở lại.
Theo: LS. Nguyễn Ngọc Chương - Người Việt Online